Nhà ở:
Nhà sàn của người Thái cách mặt đất khoảng 1,5m, làm bằng những cột gỗ chắc chắn. Du khách đến nhà được mời múc nước rửa chân trước khi lên cầu thang. Sàn nhà làm bằng tre hoặc bương hay những tấm ván chắc chắn. Nóc nhà lợp lá gồi, lá mây hay lợp ngói. Cửa sổ trong nhà thường có kích thước lớn để đón gió mát, nơi để chủ nhà treo những lồng chim cảnh, giỏ lan. Một khung cửi dệt vải treo cạnh cửa sổ là nơi làm việc của những cô gái mới lớn. Những chàng trai chưa vợ chỉ cần nhìn giá xếp chăn, đệm, quan sát hoa văn, họa tiết trang trí... là có thể biết được tài khéo của các cô. Khách sẽ được chủ nhà mời ngồi trên chiếc chiếu hoa, uống rượu cần tuyệt ngon làm bằng lúa nếp, lá hính ho, ngực mèo, gừng, ăn xôi nếp. Thoáng qua những ô cửa là những chiếc ao nhỏ hình vuông, nước trong vắt, vài chú cá đang tung tăng bơi lội. Đặc sản Mai Châu nhiều và ngon, nhưng ngon hơn cả vẫn là xôi nếp và mật ong. Mật ong thì phải đợi đến mùa hoa mới có, ít và hiếm. Nhưng xôi nếp thì nhiều và sẵn, sau cuộc trò chuyện vui vẻ, thân mật, thế nào chủ nhà cũng mời du khách nếm thử. Xôi nếp Mai Châu nổi tiếng từ lâu. Nhà thơ Quang Dũng đã nhắc tới Mai Châu như một kỉ niệm, một nỗi nhớ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Món cơm nếp trong ống lam lại càng thơm và dẻo.
Hôn nhân:
Người Thái có nhiều nhóm: Thái đen, Thái trắng, Man Thanh, Tày Mười, Tày Thanh. Người Thái đen làm nhà có hình mai rùa và được trangtrí theo phong tục xưa.Đặc biệt, tục búi tóc (tăng cẩu) là một nét đẹp trong văn hóa của người Thái đen. Hôn nhân của người Thái đen là hôn nhân theo kiểu phụ hệ, nhưng từ trước tới nay, tập người này vẫn duy trì tục ở rể, gửi rể.
"Tăng Cẩu" - Tục búi tóc của người Thái đen
Khi chàng trai người Thái đen đến tuổi lấy vợ (trước đây là 13-14 tuổi), nay mười tám, đôi mươi sẽ tự đi tìm người con gái mà mình ưng ý hoặc do bố mẹ "nhắm cho". Khi muốn lấy cô gái làm vợ, người con trai nhờ mẹ đẻ và một vài bà trong họ đến nhà cô gái làm một vài thủ tục gọi là Lòng Luông.
Lòng Luông:là mấy bà chưa mang lễ vật, chỉ đến nhà cô gái xin cho con trai mình được đi về (mà ngày nay gọi là xin đi lại) để tìm hiểu. Sau một thời gian, họ nhà trai tổ chức một đòn có lễ vật: gà, lợn, rượu, gạo… đến nhà cô gái, đoàn này do một ông mối (làm) dẫn đầu và giao tiếp gọi là pay đu, có dòng họ gộp hai giai đoạn này làm một gọi là Lòng luông đu châu.
Pay đu: Nội dung mời bên ngoại (họ của mẹ cô gái) về xin ý kiến, xin cho đôi nam nữ có điều kiện tìm hiểu. Sau một thời gian từ 3-4 tháng, gia đình và họ nhà gái chỉ nhận lời cho gần gũi, chứ chưa nhận lời cho lấy nhau. Tiếp đó là thủ tục mới gọi là To pác.
To Pác:cũng là một đoàn nhà trai mang lễ vật đến nhà gái làm cỗ mời hai họ (thực chất là 4 họ). Sau đó họ nhà gái công khai hỏi đôi nam nữ về nguyện vọng xây dựng gia đình. Giai đoạn trên họ nhà gái bàn bạc đi đến nhất trí cho lấy hay không, nên gọi là To Pác (đo và đánh dấu). Sau To Pác là Khưới quản.Có vùng gọi giai đoạn này là: Ôm sáo (chứng minh cho cô gái tìm hiểu về mình).
Khưới quản:Người con trai đến ở nhà cô gái, được cùng ăn, làm vệc nhưng ngủ một chỗ riêng gần sàn quản, gọi là khưới quản.Giai đoạn này khoảng 1 năm cô gái vẫn có quyền tiếp bạn trai khác. Tuyệt đối người khưới quản không được lén lút ngủ với cô gái, nếu có (nhất là chửa) sẽ bị phạt rất nặng. Sau một năm, nhà trai làm thủ tục gọi là Xông Phắc phá.
Xông Phắc Phá (đem bao dao cho chú rể): nhà trai làm một bao dao mới (có cả dao) đem theo lễ vật: lợn, gà, cá nướng, thịt chua, gạo, rượu làm cỗ mời nhà gái ăn, từ 10 giờ sáng đến tận tối (gọi là công ơn). Trong bữa cơm công ơn này có Khoóng Phác nói (gửi nhỏ), Khoóng Phác luống (gửi lớn). Đây là một hình thức gửi rể cho nhà gái, họ có lời chúc, lời khuyên đôi trai gái sắp thành vợ chồng, lời khuyện răn là những câu ca dao, tục ngữ, gọi chung là lời nói có vần (dài từ 20-30 câu) chẳng hạn như:
Chớ nghe lời con gà mà bỏ vườn.
Chớ nghe lời xúi dục mà bỏ anh em.
Chớ nghe lời ham muốn dại mà mất cuả.
Bằng lòng nhau thành thơm, không ưa thành thối.
Không nên người ăn người ngửi mùi.
Trai khôn nhà không bằng người đi xa….
Cứ thế người ta dạy cô dâu, chú rể bằng văn vần và kết hợp cho một số tiền nhỏ làm vốn, đặt vào một cái đĩa, gọi là Phan khẩu xó (Bàn cơm xin). Ở đây là xin phúc, xin lời răn dạy, xin nhận họ hàng. Ở nghi lễ này đôi nam nữ được chấp nhận là vợ chồng. Họ được dọn nhà mình, (biểu hiện bằng sự mừng vui được đón cô dâu về nhà chồng), một đoàn trai tráng khiêng gánh chăn, đệm và các vật phẩm họ nhà gái tặng như dụng cụ nhà bếp bát, chậu, nồi xoong về đến nhà chồng người ta làm lễ tổ tiên cho co dâu nhập gia. Nhà trai lại tổ chức một bữa cỗ đông vui chào hai họ và bè bạn. Sau đó là tục mời uống rượu cần, nhà trai có một đoàn từ 5-6 người biết cách sắp xếp ngôi thứ hai họ, giỏi mời chào cầm tay vào chum rượu uống theo đôi một hoặc 4 đến 5 đôi, lời hát răn dạy lại cất lên:
…Có chồng phải ủ rượu ngọt đắng
Nặng nhọc giúp nhau làm.
ốm đau giúp nhau thuốc
Được ăn không quên đũa
Được ở không quên ơn cha mẹ…
Cổ xưa phần này dược coi trọng phần trả ơn cha mẹ, công ơn người làm mối, và cha mẹ cô gái chia tài sản cho đôi vợ chồng, tiếp theo là lời hát chào, mừng hai họ và đôi vợ chồng mới. Tiếp nữa là hình hành vòng xoè giao kết hai họ và nam thanh nữ tú của hai họ. Cuộc xoè mú kéo dài đến tận đêm khuya, vừa xoè múa vừa ống rượu cần.
Dân tộc Thái đen có nhiều phong tục trong việc kết hôn, trong đó có bước “Pán khẩu sống sửa phạ” (bữa cơm xin đệm chăn) đây là bước đánh dấu hết thời gian ở rể. Ngày xưa bước ở rể từ 6 – 12 năm, bây giờ tùy điều kiện hoàn cảnh từng gia đình có thể từ 2 – 3 năm. Trong thời gian ở rể đôi trai gái có thể có với nhau 1 – 2 con. Nhà trai đến thưa chuyện cùng nhà gái xin “Pán khẩu sống sửa phạ” làm bữa cơm xin đệm chăn, và chính thức đón dâu về. Hiện nay các nghi thức này vẫn được duy trì tại các vùng Thái. Nhà trai chuẩn bị các lễ vật đem sang nhà gái gồm: 100kg lợn hơi, 10kg gạo nếp, rượu 80 lít, 2 con gà, 4 kẹp “pa hắp” gồm 16 con cá suối sấy khô bỏ trong giỏ nan đan hình mắt cáo, 4 ống “Bẳng nhứa” (ống thịt) chọn thịt nạc ướp cùng muối, nhồi vào ống tre để khao “lúng ta” (cậu bên ngoại) người Thái coi trọng “lúng ta”, có vị trí quan trọng trong đám cưới, gói “xí hó, khát pú” (4 gói trầu rừng) ăn cùng với rễ cây “co hát”, lá trầu lấy ở rừng về gọi là “co tói”. Loại trầu này không ăn với vôi, bà con kiêng ăn vôi, sợ con cháu nóng bỏng. Các lễ vật còn tùy thuộc vào hoàn cảnh của nhà trai và các thành phần “lúng ta” của nhà gái. Chủ nhà hoặc già bản nói trước bàn thờ: Xin tổ tiên cho con gái đem chăn đệm về nhà chồng, đôi vợ chồng ngồi phía ngoài, người đại diện gia đình nói xong, đôi vợ chồng lạy 4 lạy. Khoảng 10 giờ trưa bà con trong bản đến chúc mừng uống rượu, nhà trai tặng cho bố mẹ vợ bộ váy, quần, vòng tay, vòng bạc. Khi hội rượu đã ngả sang chiều, “sư lam” (chủ hôn) của nhà trai đứng trước mâm cơm, xin phép họ hàng nhà gái cho đón dâu về. Anh em họ hàng nhà gái sắp xếp các đồ đạc của 2 vợ chồng trẻ và tặng phẩm thành từng gánh, theo phong tục, không làm gánh lẻ chỉ làm gánh chẵn, 10 cô gái trẻ gánh các thứ: đệm, gối, chăn, hòm, thóc và các thứ vật dụng khác gọi là “Tánh cẩu la háp pay hướn phua” tức là sửa soạn lễ tẳng cẩu, gồng gánh về nhà chồng, nhà gái cũng có một số đại diện nam, nữ và “sư lam” đưa con gái đến nhà chồng. Chọn giờ tốt, “lúng ta” trao gánh đồ cho từng người. Khi đoàn nhà trai chuẩn bị đi, thanh niên nam, nữ bên nhà gái tay cầm chai rượu, người đứng ở cửa, người đứng dưới chân cầu thang, rót rượu chúc đoàn nhà trai đi qua, mỗi người uống một chén rượu, nhà gái bày tỏ tình cảm và sự mến khách với nhà trai. Mọi người mời chào nhau tạm biệt, một khung cảnh chia tay bịn rịn thật khó tả. “Po sứ me lam” dẫn đầu đoàn vừa đi, vừa hát theo bài Trường ca “Xống chụ son xao”(tiễn dặn người yêu). Bên nhà trai hôm đó cũng mời họ tộc đến dự lễ đón dâu về. Đoàn rước dâu gánh chăn đệm đến nhà trai, “sư lam” đứng dưới cầu thang hát: Mọi người trèo đèo lội suối, qua bao khó khăn vất vả mới đến được đây, chúng con xin chúc bố mẹ mạnh khỏe, xin bố mẹ đưa thang xuống để chúng con gánh đồ lên. “sư lam” bên nhà trai cũng đối lại: Muốn lên thì chưa có thang, chúng tôi cùng anh em đi xẻ, đi chặt gỗ ở rừng chưa về... hát đối đáp được một lúc, nhà trai mới hạ cầu thang xuống. Thực chất vẫn có cầu thang để đấy nhưng theo phong tục giao tiếp, đôi bên cùng thể hiện nét đẹp văn hóa trong ứng xử. Lên tới sàn khuống, “sư lam” hát tiếp để xin vào nhà: Xin bố mẹ mở cửa cho chúng con vào chào anh em họ tộc. Hai bên đối đáp một lúc mọi người mới được vào trong nhà. Bố mẹ chồng hoặc già làng đưa con dâu, con rể, các cháu đến “co lò hóng” (gian thờ tổ tiên), tất cả đứng ngoài cửa, không được vào trong. Bàn thờ được bày sẵn các thứ lễ vật, đại diện gia đình nói trước bàn thờ: Hôm nay, ngàylành, tháng tốt, gia đình đón dâu và các cháu về, cho các cháu được nhập hồn, nhập họ, nhờ tổ tiên ông bà phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, không ốm đau bệnh tật, làm ăn phát đạt. Đại diện gia đình nói xong, 2 vợ chồng cùng các cháu chắp tay vái 4 vái, các thủ tục làm xong mọi người cùng vào mâm, uống rượu, chúc mừng hạnh phúc cho đôi vợ chồng, cuộc vui kéo dài đến thâu đêm, suốt sáng.
Ngày nay do thực tế đời sống người con trai không thể ở rể như trước bởi họ là cán bộ công nhân viên chức, làm nghĩa vụ quân sự… hoặc do phong trào giãn hộ tách bản để làm kinh tế theo hộ gia đình, nên việc ở rể tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, có khi chỉ là một, hai tháng, một hai tuần và việc cưới xin chỉ thực hiện mộtlần, sau khi đôi nam nữ tìm hiểu đi đến hôn nhân, đoàn nhà trai có một doàn gồm đủ thành phần đủ cả họ bố, mẹ đến xin và hẹn ngày làm đăng ký kết hôn và làm lễ Tằng cẩu thực hiện ngay tại ủy ban Nhân dân xã, đôi vợ chồng trẻ được nghe một đoạn về luật hôn nhân, gia đình… Chú rể chỉ đến nhà vợ ở một tháng hay một tuần người ta tổ chức lễ cưới đón cô dâu về nhà chồng, nghi lễ cũng ngắn gọn hơn, những hình thức vẫn là nhà trai đem đến vật phẩm tặng nhà gái. Việc cúng lễ tổ tiên chấp nhận cô dâu mới ngắn gọn, việc ăn uống tuy đông đúc nhưng không xa hoa lãng phí mà mang một nét ẩm thực độc đáo, một tục lễ uống rượu cần và rượu chai hết sức văn hoá, tuy có say nhưng người ta chỉ hát xèo, múa, thể hiện sự mừng vui, thắt chặt tình làng xóm, họ tộc, không say làm điều sai quấy. Đặc trưng nhất là tục uống rượu cần, chỉ có họ nhà trai đi mời chào họ nhà gái, họ nhà gái ít từ chối và uống theo một tục lệ nhất định nhằm tăng cuộc vui, sau đó là xèo múa vòng, người ta tạm quên đi bao nỗi nhọc nhằn, xoá bỏ đi mọi va chạm của cuộc sống, nắm tay nhau vào vòng xoè vui bất tận.
Qua việc biến cải về tục cưới xin của người Thái ta thấy: việc cưới hỏi không chỉ nhằm vào một mục đích duy nhất và làm cho trai gái thành vợ thành chồng gắn bó sinh sống, nối dõi tông đường, mà nó còn nhằm vào một mục dích cao cả nữa là giúp cho đôi vợ chồng ấy có đủ cơ sở vững chắc đủ bản lĩnh và thói quen, kinh nghiệm sản xuất, văn hoá ứng xử chọn vẹn đạo lý làm người, mà sống suốt đời hạnh phúc góp phần xây dựng cho họ tộc và cộng đồng những giá trị tập quán văn hoá. Đồng thời cũng thể hiện rõ nét tinh thần trách nhiệm của cha, mẹ họ tộc trước hôn nhân của thế hệ trẻ, mà không hề mất đi tính tự do trường tồn cho đế tận ngày nay, những cải biến chỉ là để phù hợp với thời đại chứ không mang tính thị trường, thương mại, lai căng làm giảm giá trị nhân văn của họ. Cưới hỏi của người Thái được xem như một lễ hội rõ rệt. Lễ hội của tình yêu, hạnh phúc.
. Tục búi tóc và chăm sóc tóc:
Sau thời gian ở rể có thể chỉ 3 tháng hoặc kéo dài cho đến khi chàng rể được nhà cô gái chấp nhận. Để đôi uyên ương được ngủ chung với nhau thì hai gia đình phải tiến hành làm lễ "tăng cẩu" (búi tóc), chính thức công nhận họ là vợ chồng. Búi tóc của người phụ nữ Thái đen từ thời điểm này được coi như là một dấu hiệu thông tin cho mọi người biết họ đã có chồng. Để làm lễ này, nhà trai lại phải mang tới nhà gái một số lễ vật. Theo tục lệ, lễ "Tăng cẩu" được thực hiện ở gian gần bếp, người ta chuẩn bị một chậu nước lá thơm. Đại diện phía nhà trai gội đầu, chải tóc và búi tóc cho cô dâu. Tóc được búi lên, cuộn lại bằng một dây xà tích bằng bạc và cài một chiếc trâm bạc giữ cho tóc không bị xổ ra. Trong lúc búi tóc cho cô gái, đại diện hai nhà cùng uống rượu và hát đối đáp "khắp toóc". Nội dung của các bài khắp nói lên hoàn cảnh của mỗi nhà và những lời dặn dò đôi trai gái. Sau lễ tăng cẩu, chàng trai và cô gái được ngủ chung với nhau, cũng từ đó cô gái phải luôn búi tóc vừa để làm đẹp vừa như là một dấu hiệu thông báo cho các chàng trai khác biết họ đã có chồng. Về nguyên tắc, lễ cưới có thể được tổ chức bất kỳ lúc nào mà hai gia đình muốn, sau lễ "tăng cẩu".
Với người phụ nữ Thái, bên cạnh "tăng cẩu" thì nghệ thuật gội đầu, chăm sóc tóc của họ cũng được coi là cả một nghệ thuật mới mẻ với nhiều nét độc đáo.
Phụ nữ Thái gội đầu trên suối
Mái tóc thường được chăm chút cẩn thận và nuôi dài, rất hiếm phụ nữ Thái cắt tóc ngắn. Ngày xưa phụ nữ Thái thường gội đầu với lá cây rừng để giữ tóc đen mượt. Người Thái quan niệm, việc gội đầu của người vợ có quan hệ mật thiết với tính mạng của người chồng, nhất là khi người chồng đang đi xa và làm những việc nguy hiểm. Bởi vậy để tránh nguy hiểm cho chồng, người vợ thường không gội đầu trong suốt thời gian chồng đi vắng. Công việc hết sức hệ trọng đó được tiến hành trước ngày chồng đi xa và chỉ được thực hiện khi người chồng đã quay về một cách an toàn. Có những lần chồng đi rừng đến 1-2 tháng. Trong khoảng thời gian đó người phụ nữ Thái cũng không được gội đầu.
Để cho những búi tóc luôn sạch, không bị gầu, không bị bết lại, phụ nữ Thái có một bí quyết riêng. Bí quyết này được truyền từ đời này sang đời khác cũng như cái quan niệm không gội đầu khi chồng vắng nhà. Bí quyết đó hết sức đơn giản nhưng cũng rất hữu hiệu: dùng nước gạo để gội đầu. Phải là nước vo gạo nếp và phải thật đặc như kiểu hòa bột vào nước. Nước đó phải để ít nhất 2 ngày hai đêm đến khi thành một hỗn hợp sền sệt và có mùi thum thủm thì mới được đưa ra để gội đầu. Theo "quy định" thì mỗi khi người chồng đi xa thì phụ nữ nhất định không được gội đầu thế nhưng với những trường hợp chồng đi lâu ngày quá thì người vợ cũng có thể "phá rào". Tuy nhiên công việc này chỉ được tiến hành vào buổi đêm "để tránh con mắt của quỹ dữ".
Suối tóc
Không chỉ kiêng gội đầu lúc chồng đi vắng mà phụ nữ Thái cũng không được gội đầu vào 3 ngày Tết hoặc khi nhà có đại tang. Khi bố, mẹ qua đời, con dâu và con gái không được gội đầu, tắm rửa từ khi bắt đầu các công việc chuẩn bị tang lễ đến khi tang lễ kết thúc. Cùng với việc không được gội đầu, những người phụ nữ trong nhà chỉ được tắm với điều kiện mặc nguyên cả váy áo (phụ nữ Thái thường tắm "tiên", lúc tắm không mặc áo cho dù tắm chung suối với nam giới). Trong ngày Tết, người Thái quan niệm gội đầu là một tư thế không được đẹp mắt sẽ làm phật ý những người đã khuất. Bởi vậy việc gội đầu phải được hoàn thành trước ngày 28 Tết. Hết 3 ngày Tết hay khi tiễn những người đã khuất về trời thì người phụ nữ mới được phép tắm rửa, gội đầu trở lại.
Còn nũa
- VĂN HÓA HÒA BÌNH PHẦN 20 VĂN HÓA DÂN TỘC DAO
- VĂN HÓA HÒA BÌNH PHẦN 19 VĂN HÓA DÂN TỘC DAO
- VĂN HÓA HÒA BÌNH PHẦN 18 VĂN HÓA DÂN TỘC DAO
- VĂN HÓA HÒA BÌNH PHẦN 17 VĂN HÓA DÂN TỘC MÔNG
- VĂN HÓA HÒA BÌNH PHẦN 16 VĂN HÓA DÂN TỘC MÔNG
- VĂN HÓA HÒA BÌNH PHẦN 15 VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI
- VĂN HÓA HÒA BÌNH PHẦN 13 VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI
- VĂN HÓA HÒA BÌNH PHẦN 12 VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI
- VĂN HÓA HÒA BÌNH PHẦN 11
- VĂN HÓA HÒA BÌNH PHẦN 10