3. Chính sách đối với dịch vụ sao chụp, nhân bản tài liệu liên quan đến QTG
Dịch vụ sao chụp tài liệu (in ấn, photocopy, số hóa tài liệu) tại thư viện được tiến hành nhằm hỗ trợ NSD trực tiếp khai thác, sử dụng những thông tin, tri thức mà họ cần đến để đáp ứng nhu cầu của mình. Việc triển khai dịch vụ sao chụp, nhân bản tài liệu của thư viện phải tuân thủ một số quy tắc nhất định và phải được quy định cụ thể trong nội dung chính sách sử dụng các dịch vụ, ví dụ:
+ Hạn chế đến mức cao nhất việc sao chụp toàn bộ một tài liệu: Không cho phép sao chụp toàn bộ một tạp chí mà chỉ sao chụp một/một số bài báo trong tạp chí đó theo yêu cầu NSD; không sao chụp toàn bộ một cuốn sách mà chỉ sao chụp một phần, chương,... của sách. Riêng đối với việc sao chụp tài liệu xám (luận văn, luận án khoa học, báo cáo kết quả nghiên cứu,...) trong giới hạn cho phép 10% tổng số trang của tài liệu.
+ Hạn chế số lần sao chụp trên một tài liệu: Số lần sao chụp trên một tài liệu được cung cấp đến người dùng chỉ được phép sao chụp tối đa là một lần. Để tránh sao chụp nhiều lần trên một tài liệu, các thư viện cần có các biện pháp về công nghệ để bảo đảm rằng mức giới hạn cho phép của thư viện là 10% tổng số trang của tài liệu. Nếu không ngăn chặn hành vi sao chụp nhiều lần này, NSD sẽ sở hữu được toàn bộ nội dung tài liệu.
+ Cần đưa ra những quy định cụ thể những loại tài liệu nào được phép sao chụp và những loại tài liệu nào không được phép sao chụp: Đối với tài liệu có giá thành cao hoặc tài liệu đa phương tiện không nên đưa vào dịch vụ sao chụp. Ví dụ các loại từ điển, bách khoa toàn thư, atlas địa lý, các sách hội họa, mỹ thuật, kiến trúc,...
+ Việc sao chụp các tài liệu quý hiếm cần được thanh toán theo một biểu giá đặc biệt để bù đắp chi phí cho việc bảo quản tài liệu.
+ Trên mỗi bản sao chụp, cần thể hiện rõ ràng, chính xác và đầy đủ những thông tin chính liên quan đến việc triển khai và sử dụng dịch vụ: Ví dụ, các thông tin chứng nhận về sự cho phép sao chụp tài liệu đó của thư viện, thông tin về thời điểm triển khai dịch vụ, người trực tiếp thực hiện dịch vụ, số lượng trang được sao chụp,...[6].
Đối với trường hợp NSD sao chụp tài liệu để thực hiện một đề tài nghiên cứu nào đó, thì phải có xác nhận của cơ quan công tác và NSD phải làm cam kết tuân thủ QTG khi sử dụng bản sao tài liệu từ dịch vụ sao chụp của thư viện.
Riêng đối với các thư viện không trực tiếp thực hiện dịch vụ photocopy mà hợp đồng với các cơ sở photocopy bên ngoài để thực hiện dịch vụ, thì trong hợp đồng ký với các cơ sở này, thư viện cần yêu cầu tuân thủ pháp luật về QTG. Trong hợp đồng phải làm rõ các cam kết của các cơ sở photocopy khi thỏa thuận thực hiện dịch vụ photocopy tài liệu tại thư viện, thể hiện trong một số điều khoản của hợp đồng. Ví dụ, nhân viên thư viện sẽ nhận yêu cầu sao chụp tài liệu của NSD, sau đó, cơ sở photocopy sẽ cho nhân viên vào thư viện lấy tài liệu được photocopy. Khi sao chụp xong, nhân viên photocopy sẽ phải mang toàn bộ tài liệu được sao chụp và bản sao chụp giao cho thư viện để nhân viên thư viện sẽ kiểm soát được số lượng và khối lượng sao chụp tài liệu có vượt quá giới hạn cho phép QTG hay không (trước khi giao bản sao cho NSD).
4. Chính sách đối với dịch vụ cho thuê và mượn tài liệu liên quan đến QTG
Dịch vụ cho thuê và mượn tài liệu là dịch vụ khó kiểm soát nhất trong việc thực thi QTG tại các thư viện/cơ quan thông tin. Khi NSD mang tài liệu về nhà, thư viện không thể kiểm soát được liệu họ có tuân thủ những quy định về QTG hay không? Chính vì vậy, để hạn chế tình trạng vi phạm QTG ở dịch vụ này, bên cạnh việc quy định rõ những đối tượng sử dụng nào được phép thuê và mượn tài liệu? Thời hạn thuê và mượn tài liệu trong bao lâu? Giá cả cho việc thực hiện dịch vụ như thế nào? Thư viện cần có thông báo rằng nếu NSD tạo ra một bản sao khác thì chỉ được sử dụng cho mục đích tự học và nghiên cứu của cá nhân. Đồng thời, thư viện cũng cần có một thông báo "Cảnh báo về QTG" khi NSD thuê hoặc mượn tài liệu. Nếu NSD cố tình vi phạm những điều quy định về QTG trong bản cam kết, khi bị phát hiện sẽ chịu các hình phạt về hành vi vi phạm của mình trước thư viện và cơ quan chủ quản thư viện.
5. Chính sách sử dụng dịch vụ sản xuất sách nói liên quan đến QTG
Các thư viện đã, đang và sẽ triển khai dịch vụ sản xuất sách nói cần nắm vững từng loại tài liệu được chuyển dạng nhằm phục vụ người khiếm thị theo quy định tại Điều 25 Nghị định 100/2006/NĐ-CP “Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị” [1].
Pháp luật về QTG cho phép thư viện được chuyển dạng một bản tài liệu trong thư viện không cần xin phép tác giả hoặc chủ sở hữu QTG nhằm mục đích phục vụ người khiếm thị, không nhằm mục đích kinh doanh. Đối với tài liệu xám, nếu thư viện muốn chuyển dạng cần được sự cho phép của tác giả. Thư viện không được phép sao chụp, chuyển dạng nhiều bản và cung cấp cho NSD vì mục đích kinh doanh.
Trong quá trình xây dựng chính sách sử dụng đối với dịch vụ sản xuất sách nói, các thư viện nên tham khảo Luật bản quyền dành cho người khiếm thị của Anh. Trong Luật này có những điều khoản quan trọng có thể rất hữu ích như:
+ Khi thư viện chuyển dạng theo nguyên tắc 1-1 (tức từ một tài liệu gốc sang một tài liệu chữ nổi hoặc sách nói) vì mục đích phi lợi nhuận đương nhiên là không vi phạm QTG và không yêu cầu cần giấy phép hay không bị bất cứ sự truy cứu trách nhiệm nào từ người giữ bản quyền.
+ Thư viện có thể phân phối và cung cấp bản sao, nếu có giấy phép nói rõ hình thức tài liệu và hoạt động này vì mục đích phi lợi nhuận.
+ Thư viện cần kiểm tra lại mục đích sử dụng tác phẩm chuyển dạng để đảm bảo luật bản quyền không bị xâm phạm và các quyền trong luật được thực thi theo đúng trách nhiệm. Nếu nhân sao nhiều hơn một bản thì phải khai báo cho người giữ bản quyền số lượng bản in sao và nhiệm vụ của nơi cấp giấy phép là phải công bố chi tiết việc nhân bản đó cho cơ quan quản lý tác quyền. Thư viện sẽ là đơn vị nằm trong các tổ chức phi lợi nhuận để có thể sản xuất in sao nhiều bản đối với tài liệu chuyển dạng phục vụ người khiếm thị.
+ Các thư viện/cơ quan thông tin cần ra sức vận động giới xuất bản đồng ý cấp phép sao chụp, chuyển dạng tài liệu theo tinh thần phục vụ tình nguyện.
6. Chính sách đảm bảo an toàn thông tin nhằm hạn chế vi phạm QTG
Khi xây dựng chính sách đảm bảo an toàn thông tin trong thư viện phải lưu ý đảm bảo ba yêu cầu: bí mật, toàn vẹn và sẵn sàng sử dụng.
- Bí mật: Không được truy cập, sử dụng hoặc tiết lộ khi không được phép (ví dụ: các thông tin cá nhân, tài khoản của NSD, các thông tin về lịch sử mượn trả tài liệu của NSD…).
- Toàn vẹn: Đảm bảo sự chính xác, không thay đổi đối với thông tin gốc (ví dụ các thông tin thư mục trong CSDL thư mục, thông tin toàn văn trong CSDL điện tử, thông tin trên trang web của thư viện…).
- Sẵn sàng: Thông tin ở trạng thái sẵn sàng cho việc truy cập và sử dụng (ví dụ: hệ thống quản lý CSDL thư mục, CSDL toàn văn…).
Để thực hiện các yêu cầu trên là vấn đề không đơn giản vì liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó có quyền truy cập và sử dụng thông tin của NSD. Việc đảm bảo an toàn thông tin nhằm hạn chế vi phạm QTG mâu thuẫn với việc đảm bảo tính “mở” (tạo điều kiện thuận lợi trong việc truy cập, sử dụng mọi lúc, mọi nơi) của thư viện hiện đại. Mâu thuẫn này thể hiện trong bảng dưới đây:
Từ bảng mô tả trên có thể thấy, nếu các thư viện thắt chặt hoặc thả lỏng các chính sách hạn chế thì sẽ ảnh hưởng đến chính sách mở và ngược lại. Ví dụ, để phòng tránh khả năng sao chép tài liệu điện tử từ mạng Internet, thư viện thực hiện chính sách chỉ phục vụ NSD đọc tài liệu này trong mạng nội bộ của thư viện. Thư viện sẽ ngắt kết nối ra Internet ở các máy tính. Điều này có thể cản trở việc truy cập và tiếp cận thông tin của NSD. Ngược lại, nếu Internet được kết nối và người dùng có thể tự do tải dữ liệu về, sao chép tài liệu,… sẽ gây nên những rủi ro cho hệ thống thông tin, đồng thời sẽ không kiểm soát được những hành vi vi phạm QTG của NSD [4].
Chính vì thế, việc ngăn chặn những hành vi vi phạm QTG của NSD thư viện là một việc làm cấp thiết hiện nay.
Tóm lại, tùy thuộc vào quy mô, mục đích, chức năng, đối tượng phục vụ và khả năng tài chính, mỗi thư viện có thể có nhiều chính sách khác nhau để bảo đảm hạn chế tình trạng vi phạm QTG trong hoạt động phục vụ trong và ngoài thư viện với nhiều dạng thức tài liệu khác nhau. Bên cạnh đó, các chính sách này tạo điều kiện cho NSD có thể sử dụng thư viện một cách thuận lợi và hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra đối với nguồn tài nguyên thông tin quý giá trong thư viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Tuyết Anh. Vấn đề bản quyền trong thư viện: Kỷ yếu hội nghị Thư viện Việt Nam hội nhập và phát triển. – 2006. - tr.62 - 69.
2. Huỳnh Thanh Xuân. Tổ chức, quản lý và khai thác cứu nguồn tài nguyên điện tử tại các thư viện thành viên Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh: Luận văn thạc sĩ. - Tp. Hồ Chí Minh: Trường Đại học KHXH & NV Tp. Hồ Chí Minh, 2009.
3. Nghị định số 100/2006/CĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật sở hữu trí tuệ và quyền tác giả.
4. Nguyễn Cương Lĩnh. Đảm bảo an toàn thông tin trong các thư viện hiện đại // Tạp chí Thư viện Việt Nam. – 2009. – Số 3(19). – tr.31–37.
5. Nguyễn Ngọc Lâm. Về quyền photocopy tác phẩm trong môi trường giáo dục // Tạp chí Khoa học Pháp lý. – 2007. Số 39. - tr.10.
6. Trần Mạnh Tuấn. Bản quyền trong việc triển khai dịch vụ cung cấp bản sao tài liệu trong các thư viện đại học: Kỷ yếu hội nghị Thư viện Việt Nam hội nhập và phát triển. – 2006. - tr.70 - 74.
____________________
PGS, TSKH. Bùi Loan Thùy - ThS. Bùi Thu Hằng
Trường ĐHKHXH&NV- ĐHQG TPHCM
Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam số 6(32) – 2011 (tr.26- 31)