Để có một số cuốn sách về dân tộc Mường đồ sộ, Tiến sĩ Quydiniê phải mất 15 năm nghiên cứu, khảo sát, đọc và viết. Với nguồn tài liệu, cứ liệu phong phú, được trình bày một cách khoa học, tác phẩm “Người Mường (LesMuong) - địa lý nhân văn và xã hội học” là một công trình nghiên cứu về người Mường khá toàn diện và sâu sắc, được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đánh giá cao.

 Với những ngôn ngữ dân tộc, những khái niệm khoa học tác giả đã giới thiệu đặc trưng địa lý học của khu vực người Mường, cấu trúc địa chất lục địa bản đồ Châu Á và Đông Dương.

 

Nói về thế đất, tác giả miêu tả dòng chảy của con sông Đà trên địa phận Hoà Bình, từ tây bắc xuôi đông nam, đến Kỳ Sơn lại vòng lên phía bắc gặp con sông Hồng. Sông Đà ở độ cao, khi vào đến địa phận Hoà Bình phải len lỏi chảy qua các khe núi (hai bên bờ là núi đá dựng đứng) bị các đập nước tự nhiên bằng đá làm bế tắc, bỗng sôi réo lên, tạo ra phong cảnh hùng vĩ đường bệ và trang nghiêm (nói về đoạn ghềnh Bờ, nay đã nằm dưới đáy lòng hồ thuỷ điện). Con sông đi hết các dãy núi đá thì gặp thung lũng Phương Lâm, Kỳ Sơn rộng rãi hơn. Bởi thế, nó đã để lại hai bên bờ một dải phù sa màu mỡ và mỗi lúc càng mở rộng thêm về phía Bắc khi gần sáp nhập với sông ...

      Nói về văn hoá dân tộc ở tỉnh Hoà Bình thì trước hết phải nói tới văn hoá của dân tộc Mường. Do những đặc điểm về lịch sử và vị trí địa lý cho nên người Mường còn bảo lưu được nhiều giá trị văn hoá cổ truyền. Phần lớn đồng bào Mường vẫn ở nhà sàn, uống rượu cần và có nhiều sinh hoạt văn hoá cộng đồng trên nhà sàn. Truyền thống đạo đức gia đình giữ được những nét đẹp: Yêu trẻ, kính già, hiếu khách. Không những thế, người Mường nơi đây vẫn giữ được những lễ hội cổ truyền: Hội xuân Xéc bùa, hội Xuống đồng, hội cầu May, lễ Rửa lá lúa, lế Cơm mới... Trong các lễ hội không thể thiếu lễ hội Đình Cổi- nét văn hóa truyền thống của người Mường xưa.Lễ hội Đình Cổi được duy trì qua nhiều thế hệ, giờ đây đã trở thành một nét văn hóa truyền thống không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của người Mường (Hòa Bình).

Đình Cổi, Xã Bình Chân, Huyện Lạc Sơn, Tỉnh Hòa Bình năm 2016

(Nguồn:Bùi Thị Hiểm_K63_Khoa địa Lí_trường ĐHSPHN)

      Vào ngày mồng 7 tháng Giêng theo lịch Mường (tức ngày mồng 8 tháng Giêng Âm lịch hàng năm), người dân xã Bình Chân ở huyện Lạc Sơn lại tổ chức lễ hội Đình Cổi. Chuẩn bị lễ hội nhân dân trong Mường đã họp nhau trước đó nhiều ngày để phân công công việc.Bà con nơi đây không còn nhớ lễ hội ...

          Phong tục tập quán:

          Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.

          Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.

Lễ hội đón xuân của dân tộc Dao

          Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, ...

          Một kiểu kiến trúc nhà ở của người Dao

            Nhà ở:

          Kiến trúc nhà ở của người Dao cũng rất phong phú, tuỳ nhóm mà ở nhà trệt hay nửa sàn, nửa đất. Loại nhà nửa sàn nửa đất là loại kiến trúc nhà cửa của riêng người Dao, gắn liền với cuộc sống du canh du cư trước đây. Điều đặc biệt là toàn bộ ngôi nhà của người Dao đều được làm bằng tranh tre nứa lá, không có một chút gạch ngói. 8 cột cái trong nhà được làm bằng những cây gỗ quí, có tuổi rất già 80-90 năm. Mỗi lần chuyển nhà, họ có thể bỏ phên, tranh tre nứa lá còn những cột cái bằng gỗ quí có sức bền với thời gian thì họ chuyên chở đi để làm ngôi nhà nơi ở mới.

          Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.

           Họ tộc:

          Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.

           Sinh đẻ:

            Dưới chế độ cũ, ở người Dao nạn "hữu sinh vô dưỡng" hoặc hiếm con rất phổ biến, nên sinh đẻ là điều mong ước chính đáng của những người đã thành vợ thành ...

       Văn hóa dân tộc Dao:

          Nơi cư trú:

          Người Dao sống thành cộng đồng ở các huyện  Đà Bắc, Lương Sơn, KimBôi, Cao Phong, Kỳ Sơn và Thành Phố Hòa Bình. Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.

          Nghề nghiệp:

          Người Dao sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nương và lúa nước với kỹ thuật canh tác khá tiến bộ. Họ vừa làm nương vừa làm ruộng. Xưa kia họ chuyên du canh du cư, nghĩa là sau dăm bảy năm họ bỏ làng bỏ bản đi tìm vùng đất mới. Ngày nay người Dao đã bỏ phong tục đó, xây dựng cuộc sống mới định canh định cư. Vừa phát triển nương rẫy vừa bảo vệ và khai thác rừng hợp lý. Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng ...

            Hôn nhân gia đình:

          HôTrong phong tục cưới hỏi của người Mông tục bói số hợp vợ, hợp chồng là một khâu hết sức quan trọng, việc này quyết định cho sự thành hôn hay không của đôi trai gái trẻ. Qua khâu nắm bắt thông tin người con gái được người nhà trai chấp nhận thì nhà trai tiến hành làm thủ tục bói số để đoán biết số mệnh của cô dâu tương lai và con trai nhà mình có hợp số mệnh không? Có sống được cả đời tới khi già không?

          Tục bói số vợ chồng của vùng người Mông có hai hình thức khác nhau.Hình thức thứ nhất bói bằng hương:Khi bói người cha hay mẹ của con trai lấy ba nén hương đốt cháy sẵn ra đứng chính giữa ngoài cửa chính đọc lời cầu khấn với ma trời, ma đất, đọc ngày tháng năm sinh, con gái thứ mấy của nhà gái với con trai nhà mình sau đó quay vào trong nhà đứng tại cột ma chính đọc lời cầu khấn một lần nữa, đọc xong họ cắm cả ba nén hương xuống gốc cột ma chính, họ theo dõi và đoán biết kết quả tốt xấu qua quá trình cháy của ba nén hương đó nếu ba nén hương cháy đều nhau đến hết là được. Nếu có một nén hương cháy ở độ cao hơn, hai nén cháy thấp hơn đều nhau là rất tốt nó biểu hiện nén hương cháy cao hơn là cha mẹ trụ cột gia đình, còn hai nén cháy thấp đều nhau là cô dâu, chú ...

Liên kết web :
Đang online : 10
Hôm nay : 703
Tháng hiện tại : 2208
Tổng lượt truy cập : 1552668